Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, năm sau (968), ông lên ngôi Hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu Thái Bình, định đô ở Hoa Lư. Đất Hoa Lư (nay thuộc Ninh Bình) là kinh đô của nước ta suốt cả thời Đinh (968-979) lẫn thời Tiền Lê (980-1009). Trong lịch sử dân tộc, triều Tiền Lê đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhưng vào cuối đời Lê, vua Lê lúc đó là Lê Long Đĩnh, là một người hung tàn, bạo ngược, đàn áp nhân dân rất dã man, khiến lòng người vô cùng oán hận. Vì vậy, sau khi Lê Long Đĩnh chết (năm 1009), triều đình đã suy tôn một vị quan thuộc dòng họ khác là Lý Công Uẩn lên ngôi.
Lý Công Uẩn sinh năm 974, tại làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Bắc Ninh). Từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ tài năng, chí lớn khác thường. Ông làm quan nhà Tiền Lê đến chức Điện tiền chỉ huy sứ-võ tướng cao cấp chỉ huy quân hầu cận của triều đình. Sau khi lên ngôi, cuộc sống bình yên sau lũy đá giăng thành ở Hoa Lư không ngăn được tầm nhìn đổi mới của vị vua mở đầu triều Lý. Sách sử còn ghi: “Lý Thái Tổ lên ngôi, chưa vội làm việc khác, mà trước tiên mưu tính việc định đô... Xét vì sự quyết đoán, sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp”. Lý Công Uẩn nhận thức rằng, Hoa Lư chỉ có địa thế núi non hiểm trở, thích hợp với vị trí phòng ngự lợi hại về quân sự khi nhà nước độc lập còn non trẻ. Muốn đưa đất nước phát triển, cần phải tìm một nơi mới, để xây dựng kinh đô trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của một quốc gia độc lập, hùng cường. Nơi đó chỉ có thể là thành Đại La...
Ta có thể thấy, khoảng cách địa lý từ Hoa Lư ra Đại La chẳng xa bao nhiêu, nhưng vị thế của kinh đô mới được con mắt tinh tường của một vị vua có trí tuệ xuất chúng mô tả trong “Chiếu dời đô” thế này: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc... Ở đó, địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”. Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong cuốn “Đại Việt Sử ký tiền biên”, cũng đã viết về Đại La: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là nước sông, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế nước Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Mùa thu tháng 7, năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời kinh đô Hoa Lư ra kinh đô lớn là Đại La kinh phủ. Tục truyền rằng: “Thuyền tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vua nhân đó đổi gọi thành Đại La là Thăng Long,... đặt tên nước là Đại Việt” (Đại Việt sử ký toàn thư). Vị trí, điều kiện tự nhiên và tiến trình lịch sử đã tạo dựng những tiền đề cho Thăng Long đóng vai trò là kinh đô của đất nước thời kỳ phục hưng dân tộc. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là nhận thức ra những tiền đề đó, cũng như xác định được yêu cầu và khả năng tạo ra sức mạnh của đất nước để xây dựng và bảo vệ nó. Cống hiến lớn lao của vua Lý Thái Tổ không chỉ dừng ở nhận thức, mà còn tự tin ở sức mạnh của đất nước, của nhân dân và đi đến một quyết đoán lịch sử. Những ý tưởng và suy tính của nhà vua được trình bày ngắn gọn trong văn kiện lịch sử “Chiếu dời đô”, phản ánh một tư duy chiến lược bao quát, một tầm nhìn xa trông rộng. Cùng với ông-người sáng lập kinh thành mới, các vua Lý kế nhiệm đã dày công kiến lập, để Thăng Long xứng đáng với vị trí và vai trò kinh đô của nước Đại Việt trên con đường phục hưng dân tộc, và dĩ nhiên công việc xây dựng đô thành luôn gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sau hai thế kỷ xây dựng, Thăng Long đời Lý đã trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nước Đại Việt, một đô thị phồn vinh. Trong thời gian thịnh đạt của vương triều, nhà Lý đã bảo vệ vững chắc kinh đô. Cuộc xâm lăng của quân Tống bị đánh bại trên phòng tuyến Như Nguyệt, tạo nên một thời kỳ ổn định và thanh bình cho công cuộc kiến lập kinh thành. Thăng Long trở thành trung tâm qui tụ, kết tinh tài năng, trí tuệ dân tộc, tạo nên phong cách và truyền thống văn hóa Thăng Long, để từ đây tỏa chiếu ảnh hưởng ra cả nước. Sau thời Lý, lịch sử tiếp tục tiến trình của nó, đất nước qua nhiều vận hội và thách thức, có những lúc thăng trầm, nhưng tất cả tạo thành một dòng chảy liên tục mà những gì vua Lý Thái Tổ và vương triều Lý đã tạo lập vẫn giữ vai trò rất quan trọng, mãi mãi được sử sách ghi nhận, để lại dấu ấn rất đậm trong ký ức và tình cảm của nhân dân.